Ngành chăn nuôi lợn: Tái cơ cấu, đi vào chiều sâu

Chăn nuôi lợn là lĩnh vực chăn nuôi chủ lực, có giá trị khoảng 20 tỷ USD, chiếm trên 62% tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại ở nước ta. Từ chăn nuôi manh mún, nhỏ lẻ, tự cung tự cấp trước đây, năm 2023, Việt Nam được biết đến là một quốc gia có ngành chăn nuôi lợn đứng thứ 5 về đầu con và thứ 6 về sản lượng thịt.

Thời cơ xen thách thức mới

 

Theo ông Phạm Kim Đăng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, hiện nay, chăn nuôi lợn có một số lợi thế, cụ thể: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn kỹ thuật, các cơ chế, chính sách, đề án… để tổ chức quản lý, phát triển chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng ngày càng hoàn thiện đồng bộ, thống nhất.

 

Ngành chăn nuôi lợn Việt Nam có thị trường nội địa rộng lớn với trên 100 triệu dân, lượng khách du lịch quốc tế ngày càng tăng do các hoạt động du lịch, văn hóa, lễ hội được tổ chức lại sau đại dịch Covid-19. Trong đó, thịt lợn là loại thực phẩm được yêu thích và là một trong những thực phẩm chính, sử dụng hàng ngày của người Việt Nam.

 

Mức đầu tư cho ngành chăn nuôi ngày càng tăng lên khi ngày càng nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài và các thành phần kinh tế khác đầu tư phát triển, chế biến sản phẩm chăn nuôi theo mô hình chuỗi từ trang trại đến bàn ăn.

 

Từ tháng 3/2023, giá TĂCN bắt đầu có xu hướng giảm kéo theo giá thành chăn nuôi lợn giảm so với các tháng đầu năm 2023,  giá lợn hơi tăng từ tháng 02/2024 (từ 55.000-75.000 đồng/kg), giúp người chăn nuôi và doanh nghiệp có lãi.

 

Chăn nuôi lợn đã tiếp thu nhanh những tiến bộ khoa học, công nghệ tiên tiến cả về con giống và trang thiết bị, lấy khoa học và công nghệ là động lực phát triển, là lực lượng sản xuất quan trọng, giúp tăng năng suất và hạ giá thành sản xuất.

 

Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 106/2024/NĐ-CP ngày 01/8/2024 quy định chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi làm cơ sở để khuyến khích các địa phương, doanh nghiệp và người chăn nuôi có cơ hội tiếp cận nguồn hỗ trợ đầu tư vào phát triển chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng.

 

Cũng theo ông Phạm Kim Đăng, chăn nuôi lợn vẫn gặp những khó khăn đó là: chăn nuôi an toàn sinh học và kiểm soát dịch bệnh chưa thực sự được triển khai đồng bộ; tính chuyên nghiệp trong chăn nuôi của khu vực nông hộ, trang trại quy mô vừa và nhỏ chưa được cải thiện, giá thành sản xuất còn cao; giết mổ tập trung, công nghiệp không cạnh tranh được với giết mổ nhỏ lẻ dẫn đến chênh lệch lớn giữa giá bán của người chăn nuôi; chăn nuôi lợn vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu đầu vào như con giống chất lượng cao và đặc biệt là nguyên liệu thức ăn chăn nuôi; toàn cầu hóa về thị trường tác động lớn đến các chuỗi cung ứng, cạnh tranh sản phẩm chăn nuôi ngày càng diễn ra căng thẳng…

 

Dịch bệnh vẫn là mối lo hàng đầu với ngành chăn nuôi lợn của Việt Nam, theo ông Phan Quang Minh, Phó Cục trưởng Cục Thú y cho biết, từ đầu năm đến ngày 12/8/2024, cả nước xuất hiện 863 ổ Dịch tả lợn châu Phi (ASF) tại 46 tỉnh, thành phố, tổng số lợn mắc bệnh, chết và tiêu hủy hơn 57.000 con. Cả nước xảy ra 3 ổ dịch lở mồm long móng type O trên lợn (số lợn mắc bệnh 86 con, số lợn chết và tiêu hủy là 43 con). Bên cạnh đó, hệ thống cơ quan quản lý chăn nuôi, thú y tại các địa phương đang có nhiều xáo trộn, gây khó khăn, bất cập trong hoạt động.

 

Chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ

 

Sau những biến cố của ngành chăn nuôi như ASF và đại dịch Covid-19, chăn nuôi lợn đã chuyển dịch mạnh theo xu hướng giảm chăn nuôi nhỏ lẻ ở hộ gia đình, tăng mạnh các hộ chăn nuôi chuyên nghiệp và trang trại quy mô lớn. Trong 5 năm vừa qua, tỷ lệ chăn nuôi nông hộ giảm từ 5-7%/năm, riêng năm 2019-2022, cơ sở chăn nuôi nhỏ quy mô nông hộ giảm 15-20%. Hiện nay sản lượng lợn sản xuất trong nông hộ nhỏ lẻ giảm còn 35-40%; sản lượng lợn sản xuất trong hộ chuyên nghiệp và trang trại chiếm 60-65%.

 

Cơ cấu nguồn cung thịt lợn năm 2022 và 2023 cho thấy, doanh nghiệp nội chỉ chiếm khoảng 19%, hộ chăn nuôi chiếm 38%, doanh nghiệp FDI chiếm 43% (theo báo cáo của Chứng khoán Vietcombank –VCBS).

 

Các doanh nghiệp chăn nuôi lớn trong nước như Dabaco, Masan, Tân Long, Thiên Thuận Tường, Mavin, GREENFEED, Trường Hải, Hòa Phát, Xuân Thiện… và nước ngoài như C.P Việt Nam, Japfa Comfeed, New Hope, CJ Vina, Thái Việt… đang xây dựng và từng bước hình thành hệ thống liên kết chuỗi (feed-farm-food), hệ thống phân phối, bán lẻ để đến tay người tiêu dùng với giá thành tốt nhất. Đây chính là bước chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi để từng bước hiện đại hóa ngành chăn nuôi.

Cơ cấu nguồn cung thịt lợn trong các loại hình chăn nuôi của Việt Nam năm 2022-2023 (Chứng khoán Vietcombank –VCBS)

 

Cơ cấu đàn nái giữa khu vực doanh nghiệp chăn nuôi và khu vực nông hộ đang dần thay đổi, tỷ lệ đàn lợn nái của khu vực nông hộ có xu hướng ngày càng giảm, khu vực doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Cụ thể, năm 2022, đàn lợn nái sinh sản ước đạt 3,03 triệu con, tăng 8% so với năm 2021. So với năm 2016 (năm đàn lợn nái đạt đỉnh với 3,6 triệu con), thì quy mô đàn nái của các công ty đã mở rộng gấp hơn 2 lần. Trong đó, khu vực công ty đóng góp 37,2% tổng đàn nái nhưng do hiệu suất sinh sản của nái cao và điều kiện chuồng nuôi tốt hơn nên khu vực này đóng góp 47% tổng lượng lợn thịt xuất chuồng năm 2022 (tương ứng 19 triệu con so với tổng số 41 triệu con xuất chuồng, tăng hơn 18% so với năm 2021).

 

Năm 2023, tổng đàn lợn nái sinh sản đạt 3,12 triệu con, tăng 2,9% so với năm 2022. Trong đó đàn lợn nái của các doanh nghiệp, công ty là 1,21 triệu con chiếm 38,8% tổng đàn lợn nái cả nước trong khi đó đàn lợn nái trong nông hộ chiếm 1,91 triệu con chiếm tỷ lệ 61,2% tổng đàn lợn nái cả nước.

Cơ cấu đàn lợn nái của Việt Nam phân bố theo chăn nuôi nông hộ và công ty (ĐVT % – nguồn: AgroMonitor)

 

Theo ông Phạm Kim Đăng, chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ không bị mất đi hoàn toàn, vì đó là sinh kế của hàng triệu hộ chăn nuôi được hình thành bao đời nay. Tuy nhiên, nông dân chăn nuôi nhỏ lẻ muốn đứng vững buộc phải liên kết với nhau nhằm tăng sức mạnh để trở thành thành viên của tổ nhóm, HTX, hoặc liên kết với doanh nghiệp. Còn muốn đứng vững độc lập thì các hộ chăn nuôi buộc phải chăn nuôi chuyên nghiệp hoặc chăn nuôi con đặc sản, quý hiếm có giá trị cao, chăn nuôi hữu cơ, sinh thái gắn với du lịch.

 

Thị trường chăn nuôi thay đổi

 

Theo đánh giá của một chuyên gia trong ngành chăn nuôi, chăn nuôi nông hộ, trang trại vừa và nhỏ là mắt xích yếu nên dễ tổn thương nhiều nhất, tỷ lệ giảm đi nhanh chóng. Đó là điều tất yếu của ngành chăn nuôi, nhưng khu vực chăn nuôi nhỏ lẻ giảm nhanh hơn so với chúng ta dự liệu. Đây là điều bất thường, đáng phải suy nghĩ và cũng phản ánh chăn nuôi nông hộ bị chăn nuôi công nghiệp, đặc biệt là khối FDI lấn lướt. Cơ cấu chăn nuôi thay đổi sẽ sắp xếp lại trật tự, thị trường chăn nuôi. Điều này cũng thể hiện ưu thế của chăn nuôi lớn, chăn nuôi công nghệ cao về năng suất, giá thành.

 

Thị phần của ngành chăn nuôi lợn nghiêng về khối doanh nghiệp, trang trại cũng khiến các ngành đi kèm như thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thiết bị phụ trợ… phải thay đổi và đang tái cơ cấu rất mạnh mẽ, đầu tư bài bản hơn, chuyên nghiệp hơn cả về sản xuất và dịch vụ.  

 

Các công ty sản xuất TĂCN cũng chuyển đổi dần từ kênh đại lý sang tập trung bán trại lớn và phát triển hệ thống trang trại để tự chăn nuôi. Các công ty thuốc và vắc xin cũng phải chuyển đổi theo, kênh đại lý nhỏ lẻ giảm đi, khách hàng trang trại, khách hàng công ty lớn tăng lên, dẫn tới cắt giảm nhân sự kinh doanh thuần tuý, tăng nhân sự kỹ thuật có trình độ cao để hỗ trợ và tư vấn giải pháp cho khách hàng.

 

Nhu cầu nhân sự cho mảng kỹ thuật làm việc trong các trang trại của các công ty, tập đoàn là rất lớn và đòi hỏi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao và có kinh nghiệm vận hành sản xuất các trang trại quy mô lớn. Đồng thời nhóm nhân sự tham gia trực tiếp và chiếm tỷ lệ >90% tại các trang trại là công nhân chăn nuôi cũng đang thiếu hụt trầm trọng, rất khó tuyển và không gắn bó lâu dài. 

 

Ngoài ra, ngành chăn nuôi đã chứng kiến sự hình thành và đưa vào hoạt động của nhiều dự án chăn nuôi với quy mô 10.000 nái, hàng chục ngàn heo thịt… tập trung ở một số tỉnh còn quỹ đất rộng như tại vùng Tây Nguyên, Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ…Trang trại quy mô siêu lớn là giải pháp tối ưu trong quản lý và đầu tư nhưng sẽ là thách thức khi xảy ra ASF và các hệ lụy về môi trường. Đã đến lúc ngành chăn nuôi heo Việt Nam cần có những thay đổi đột phá cả về cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng và nhân sự đi kèm.

 

Tâm An

Lượt xem: 5
Nguồn:nhachannuoi.vn Sao chép liên kết
Bài viết liên quan
Đang chờ cập nhật