Giải pháp nâng tầm và thúc đẩy xuất khẩu các loại trái cây có lợi thế
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng xuất khẩu lớn đối với các loại trái cây như chanh dây, chuối, dứa và dừa. Trong bối cảnh hiện tại, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ vào sản xuất và quản lý chuỗi cung ứng.
Các loại trái cây này đang trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, mang lại doanh thu hàng tỷ USD.
Phát huy lợi thế trái cây chủ lực
Tại Diễn đàn “Giải pháp tăng sức cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm trái cây có lợi thế: Chanh leo, chuối, dứa, dừa”, ông Nguyễn Như Cường, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), khẳng định: Chanh dây, chuối, dứa và dừa là những đại diện tiêu biểu, hội tụ nhiều lợi thế và tiềm năng xuất khẩu.
Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổng diện tích canh tác 4 loại trái cây trên hiện đạt khoảng 420.000ha với sản lượng trên 6,3 triệu tấn. So với các loại trái cây khác, đây là con số không hề nhỏ. Nhu cầu thị trường đối với các mặt hàng này cũng khá lớn.
Ngành chanh dây có tiềm năng cán mốc 1 tỷ USD nếu quy hoạch tốt và thị trường Trung Quốc mở rộng. Ảnh do VinaFruit cung cấp
Với chanh leo, hiện Việt Nam đạt sản lượng 163.000 tấn/năm, trồng tập trung ở Tây Nguyên. Định hướng đến năm 2030 đạt 300.000 tấn, mở rộng vùng trọng điểm tại Lâm Đồng, Đắk Nông, Gia Lai; đồng thời hoàn thiện thủ tục để xuất khẩu chính ngạch sang Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Thái Lan. Ngành cũng đang ưu tiên phát triển giống sạch bệnh và nâng cao giá trị gia tăng thông qua chế biến.
Sản lượng dứa đạt khoảng 860.000 tấn, chủ yếu trồng tại Đồng bằng sông Cửu Long
Dứa hiện đạt sản lượng khoảng 860.000 tấn, chủ yếu trồng tại Đồng bằng sông Cửu Long. Mục tiêu đến năm 2030 đạt gần 1 triệu tấn, với sản phẩm trồng rải vụ phục vụ chế biến và xuất khẩu trái vụ. Mặc dù đã có mặt tại 122 quốc gia, song Việt Nam chưa mở rộng hồ sơ kỹ thuật cho thị trường mới, trong khi EU là thị trường tiềm năng có thể tận dụng qua EVFTA.
Phần lớn chuối Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng quả tươi, chủ yếu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước Trung Đông.
Chuối với sản lượng khoảng 3 triệu tấn, đang là mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu hơn 625.000 tấn chuối sang Trung Quốc. Định hướng giai đoạn tới là giữ vững thị phần bằng nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm và xây dựng thương hiệu quốc gia cho chuối Việt Nam.
Từ khi có sự định hướng chuyên canh từ cơ quan chức năng và Hiệp hội, chất lượng dừa mới dần ổn định.
Dừa có diện tích trồng lớn nhất trong nhóm trái cây lợi thế, với hơn 202.000ha, sản lượng 2,28 triệu tấn/năm. Việt Nam đang nằm trong nhóm nước xuất khẩu dừa hàng đầu thế giới. Định hướng đến năm 2030, ngành dừa sẽ chuyển mạnh sang chế biến sâu, sản xuất theo quy trình GAP, phát triển mô hình trồng xen, nuôi xen, kết hợp du lịch sinh thái và Chương trình OCOP.
Nâng tầm lên thành các mặt hàng “tỷ đô”
Tiềm năng là vậy, nhưng thực tế, từ góc độ Nhà nước, HTX, người trồng… còn rất nhiều việc phải làm để đưa các mặt hàng này lên tầm tỷ đô trong thời gian tới.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam cho biết, dừa đã đạt kim ngạch xuất khẩu 1,1 tỷ USD vào năm 2024, thuộc top 7 mặt hàng nông sản chủ lực. Nhưng chuối mới đạt 380 triệu USD, chanh leo 222 triệu USD và dứa thậm chí chưa đến 50 triệu USD. Hiện cả 4 mặt hàng đều có lợi thế tuyệt đối hoặc tương đối, nhưng đang đối diện với các thách thức giống nhau như: Bộ giống còn đơn điệu, thiếu giống tốt, giống chống chịu với các loài sâu bệnh hại quan trọng, thiếu vùng nguyên liệu đạt chuẩn, liên kết rời rạc, tỷ lệ chế biến thấp, thiếu thương hiệu quốc gia và thị trường vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Công tác truy xuất nguồn gốc vẫn gặp vướng mắc, đặc biệt là trong bảo hộ giống cây trồng.
Một khó khăn khác là công nghệ thu hoạch sơ chế, bảo quản sau thu hoạch còn hạn chế. Công nghiệp chế biến các sản phẩm từ trái cây chưa phát triển, cơ cấu sản phẩm trên thị trường chủ yếu là trái cây tươi, tỷ trọng trái cây qua chế biến còn rất thấp.
Tại một số Diễn đàn gần đây được tổ chức liên quan đến những loại trái cây chủ lực, nhiều ý kiến cũng nhấn mạnh, ngành trái cây Việt Nam hiện đối mặt với nhiều rào cản kỹ thuật từ các thị trường nhập khẩu, như: kiểm dịch thực vật, truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm.
Theo ThS. Ngô Quốc Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu II, việc mở rộng sang thị trường Nam Mỹ gặp khó do chi phí vận chuyển và cạnh tranh gay gắt, trong khi các nước ASEAN lại có sản phẩm tương đồng, khó tạo khác biệt. Vì vậy, Việt Nam cần định hướng phát triển trái cây theo chiều sâu, không chỉ mở rộng diện tích mà chú trọng chất lượng, công nghệ sau thu hoạch, tiêu chuẩn hóa chuỗi giá trị và minh bạch thông tin.
“Muốn xuất khẩu hiệu quả, chúng ta phải kiểm soát chặt chẽ truy xuất nguồn gốc và tổ chức lại sản xuất theo chuỗi. Mỗi hợp tác xã, doanh nghiệp và nông hộ phải trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị, góp phần xây dựng nền nông nghiệp chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập”, ông Tuấn nhấn mạnh.
Với riêng cây chuối, ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An kêu gọi cơ quan quản lý, hiệp hội ngành hàng quan tâm hơn tới phân khúc chuối chế biến và khai thác giá trị từ các phế phụ phẩm của cây chuối. Nguyên nhân là do phần lớn chuối Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng quả tươi, chủ yếu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước Trung Đông. Trong khi đó, các sản phẩm như chuối sấy, chuối ép, rượu chuối, bánh chuối hay bột chuối xanh, vốn có giá trị cao hơn, vẫn chỉ ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún.
Ông Huy cho rằng, trong bối cảnh thị trường chuối tươi ngày càng cạnh tranh, việc phát triển sản phẩm chế biến sâu và phụ phẩm là bước đi tất yếu nếu Việt Nam muốn nâng tầm ngành chuối và tránh phụ thuộc vào một vài thị trường xuất khẩu truyền thống.
Với ngành hàng dừa, bà Nguyễn Thị Kim Thanh, Chủ tịch Hiệp hội Dừa Việt Nam, cho rằng, để phát triển bền vững, ngành dừa cần có nguồn nguyên liệu ổn định về chất lượng và sản lượng, đồng thời đòi hỏi sự phối hợp giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các viện, trường để đưa ra giải pháp nâng cao năng suất, hiện đại hóa sản xuất. “Chúng ta có thể chế biến dừa kết hợp cùng các loại quả khác như: chuối, dứa… để đa dạng hóa sản phẩm, từ đó gia tăng giá trị trái cây Việt Nam. Là biểu tượng của quê hương và du lịch nhiệt đới, dừa còn là mối liên kết để phát triển du lịch, lan tỏa hình ảnh, văn hoá và đặc sản Việt trên trường quốc tế”, bà chia sẻ.
Với ngành chanh dây, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty cổ phần Nafoods, chia sẻ, để ngành chanh dây phát triển bền vững, cần triển khai một số giải pháp như: quy hoạch vùng trồng hợp lý, kiểm soát chất lượng giống, siết chặt quản lý thuốc bảo vệ thực vật và tổ chức lại sản xuất để quản trị tốt các cơ sở nhỏ lẻ. “Từ con số 0 cách đây 10 năm, ngành chanh dây đã tạo ra giá trị kinh tế đáng kể (mảng cô đặc và puree cán mốc 300 triệu USD, cả quả tươi có thể đạt hơn 500 triệu USD trong năm nay) và có tiềm năng cán mốc 1 tỷ USD nếu quy hoạch tốt và thị trường Trung Quốc mở rộng”, ông Hùng nói.
Tuy nhiên, theo ông Hùng, tiềm năng cao như vậy vẫn chưa được khai thác đúng mức. Theo ông, cần có một chiến lược phát triển bài bản hơn, trong đó cần có cách chính sách để “cởi trói” đất đai như cổ phần hóa đất công, đấu giá hoặc cho thuê đất để tạo điều kiện phát triển ngành hàng một cách bền vững cùng việc đầu tư vào hệ thống thủy lợi và hạ tầng phục vụ sản xuất.
Để phát triển các sản phẩm trái cây có lợi thế, tiềm năng cao về năng suất, có sức cạnh tranh và có thể trở thành sản phẩm chủ lực trong xuất khẩu mới của Việt Nam, cần phải tổ chức lại toàn bộ chuỗi giá trị từ giống, vùng trồng, công nghệ chế biến, thương hiệu đến thị trường xuất khẩu, đồng thời có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ cơ chế, chính sách của Nhà nước.